Các loại cây thủy sinh lọc nước và cảnh quan trong hồ bơi sinh thái và hồ cá thủy sinh :
1.Cây Thủy Trúc
Tên thường gọi: Thủy Trúc, Lác Dù, Trúc Ngược
Tên khoa học: Cyperus involucratus / Cyperus alternifolius
Họ thực vật: Cyperaceae (họ Cói)
Công dụng: Cây Thủy Trúc phát triển rất tốt trong môi trường nước, cây có tác dụng lọc và làm sạch môi trường nước. Cây thường được sử dụng làm cây thủy sinh để trang trí nhà cửa, sân vườn, hồ nước. Trồng trong các chậu, lọ thủy tinh, trồng trong các bể cả cảnh, hồ cá nhân tạo, trồng trang trí sân vườn, tạo tiểu cảnh nước. Cây Thủy Trúc vừa có tác dụng thẩm mỹ, vừa có tác dụng lọc không khí, lọc nước.
02.Thủy diệp lan (Cryptocoryne) :
Thủy diệp lan có nhiều loại lá tùy theo kích thước và hình dạng. Thủy diệp lan xuất xứ từ Singapore, Malaysia trong những lòng suối thiên nhiên và phát triển để xuất khẩu. Ở nước ta có cây mái dầm (còn gọi là cây ráy chùy ẩn), thân rễ mọc đứng trong nước cao khoảng 10 cm có các vảy ở mắt, lá thành tán 5-7 cái, phiếm lá dải dài góc lá thuôn dần hay hình ném cuống lá hẹp, nhạt. Thường mọc dài ở ruộng nước, ở các nơi ruộng ẩm (Miền Bắc), những cây mọc sâu trong nước lá hẹp dài hơn, cuống lá cứng dài.
03.Thủy phượng vĩ (Water Fern) :
Thủy phượng vĩ tính chất như thủy thần tiên thả trôi trên mặt nước, cây mọc khỏe tách khỏi không khí vẫn sống.
04. Cây sậy
Tên thường gọi : Sậy
Tên khoa học: Phragmites autralis là loài cây lớn thuộc họ Hòa thảo (Poaceae)
Công dụng: Cây có hệ rễ rất phát triển, mọc cắm sâu vào lớp bùn đất tạo điều kiện cho hệ vi sinh vật xung quanh phát triển mạnh, có thể phân hủy chất hữu cơ và hấp thu kim loại nặng trong nước thải. Ước tính, vi khuẩn trong đất quanh rễ loại cây này nhiều như lượng vi khuẩn trong các bể hiếu khí kỹ thuật, nhưng phong phú hơn về chủng loại 10-100 lần. Ngoài ra, không như các loài cây khác tiếp nhận ôxy không khí qua khe hở trong đất và rễ, sậy có cơ cấu chuyển ôxy ở bên trong, từ ngọn cho tới tận rễ. Quá trình này cũng diễn ra cả trong giai đoạn tạm ngừng sinh trưởng của cây. Nhờ vậy, rễ và cả thân cây sậy có thể tồn tại trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Ôxy do rễ sậy thải vào đất, cát được vi sinh vật sử dụng trong quá trình phân hủy hóa học.
05.Cây cỏ năng còn gọi rong tóc tiên (Eleocharis acicularis)
Cây cỏ năng phân bố ở Đông Á (Cả Bắc và Nam) Châu Âu và Bắc Mỹ thường thấy ở vùng đất cát ẩm hay ngập. Thân rễ mọc bò ngang không lá mà đâm lên một chùm thân dài 20 đến 30 cm. Cây bị ngập nhỏ hơn. Cụm hoa hình bông khá nhỏ (dưới 1 cm) ở ngọn các nhánh. Trồng ở nền đáy bể nhỏ hoặc tầng trung bình bể lớn. Cần đất có cát và nhiều ánh sáng. Nhân giống bằng thân bò. Cá thể phát triển thành bụi.
06.Cỏ vetiver
Tên thường gọi: hương bài.
Tên khoa học: Vetiveria zizanioides L.
Công dụng: Cỏ Vetiver là một loại thực vật có bộ rễ rất phát triển, mọc rất nhanh và ăn rất sâu, bám chắc vào trong lòng đất. Chúng có đặc tính là chịu hạn và chịu nước rất tốt, đặc biệt là chúng có thể sống và sinh trưởng được trong vùng ngập nước có mức độ ô nhiễm cao.
Rễ của chúng có thể ăn sâu vào trong lòng đất tới 3,6m trên nền đất tốt. Bộ rễ rất lớn và dài chính là điều kiện tốt cho sự phát triển và sinh trưởng của các loài vi khuẩn và nấm, giúp cho quá trình phân hủy và hấp thụ các chất hữu cơ, Nitơ, phốt pho, kim loại nặng... Thân cỏ Vetiver mọc thẳng đứng, rất cứng, có thể đạt tới 3 m chiều cao, nếu trồng dày thì chúng tạo thành hàng rào sống, kín nhưng vẫn thoáng, khiến nước chảy chậm lại và hoạt động như một màng lọc, giữ lại bùn đất.
07. Rêu bèo (Riccia Fluitans) :
Rêu bèo phân bố ở nhiều nơi trên thế giới từ đầm lầy đến ruộng nước và sông suối. Cây gần 1 tản {không có rễ thật) thân hay lá màu lục bóng rộng cỡ 0,5 đến 1 mẫu mã. Sinh sản phân nhánh chẻ đôi ở đỉnh tán dài đến 40 - 50 cm. Cây lan nhanh nếu trong nước cá nhiều chất dinh dưỡng. Ở nhiều bể nuôi chúng hình thành lớp bảo vệ tốt cho cá bọt. Có thể có dạng nổi cung cấp thêm oxy trên bề mặt nước. Sinh sản tự nhiên bằng tảo, nhiệt độ đến 25 độ C.
08. Cỏ nến:
Tên thường gọi : Cỏ nến, hương bồ thảo, bồn bồn
Tên khoa học: Typha orientalis
09. Cây bèo tây
Tên thường gọi: Bèo tây, lục bình, lộc bình, bèo Nhật bản
Tên khoa học: Eichhornia crassipes
Công dụng: Bèo tâylà một loàithực vật thuỷ sinh, thân thảo, sống nổi theo dòng nước, Cây bèo tây mọc cao khoảng 30 cm với dạng lá hình tròn, màu xanh lục, láng và nhẵn mặt, gân lá hình cung dài,hẹp. Lá cuốn vào nhau như những cánh hoa. Cuống lá nở phình ra như bong bóng xốp ruột giúp cây bèo nổi trên mặt nước. Ba lá đài giống như ba cánh. Rễ bèo trông như lông vũ sắc đen buông rủ xuống nước, dài đến 1m.
Sang hè cây bèo nở hoa sắc tím nhạt, điểm chấm màu lam, cánh hoa trên có 1 đốt vàng. Có 6 nhuỵ gồm 3 dài 3 ngắn. Bầu thượng 3 ô đựng nhiều noãn, quả nang. Dò hoa đứng thẳng đưa hoa vươn cao lên khỏi túm lá.
Cây bèo tây sinh sản rất nhanh nên dễ làm nghẽn ao hồ, kinh rạch. Một cây mẹ có thể đẻ cây con, tăng số gấp đôi mỗi 2 tuần.Sống ở cả trên cạn và dưới nước
Ở dạng tự nhiên, loại bèo này có tác dụng hấp thụ nhữngkim loại nặng (như chì,thủy ngân và strontium) và vì thế có thể dùng để khử trừô nhiễm môi trường.
10. Rau đắng biển (Bacopa monnieri):
Rau đắng biển khá phổ biến tại các vùng nhiệt đới và nhiệt đới trừ Châu Úc. Việt Nam khá nhiều ở các cánh ruộng về vùng đất cát. Cây thảo, lâu năm, thân nằm, mập không lông. Hoa đơn trắng lá đổi hình muỗng dài khoảng lcm. Dễ trồng trong kể kính, mọc chậm, ưa đất mùn. Nhân giống bằng giâm hay cắt cành. Còn có loại, rau đắng biểu (lá dài) bacopa caroliniana có đặc tính tương tự như loại đã giới thiệu trên.
11.Cây ổ sao cánh (microsorum pteropus):
Cây ổ sao cánh phân bố từ Ấn Độ đến Viễn đông, mọc cả trên đá và nơi ngập nước. Thân rễ đầy lông nâu lẩn rễ dạng tóc màu đen. Lá màu lục tối dài khoảng 25cm rộng 4- 5cm. Lá cứng hay gãy, đầu lá nhọn lá nổi thường dài hơn. Loài dễ trồng trong bể kính bằng cách cột vào vật nặng trong bể. Khi nhân giống có thể cắt đoạn thân hoặc nhánh cây nhỏ mới mọc. Cây phát triển mạnh và ánh sáng nhiều hay thiếu cũng sống được.
12.Rau mác:
Tên thường gọi: Rau mác
Tên khoa học Monochoria hastata
Công dụng : là một loài thực vật có hoa trong Họ Lục bình (Pontederiaceae).Có nguồn gốc ở Châu Á và trên nhiều quần đảo Thái Bình Dương, là loài cỏ dại quan trọng trên ruộng nước ngọt trũng thấp.
Ở Việt Nam cây rau mác xuất hiện trên cả nước lẫn cạn. Ở Nam Bộ cây rau mác sống hoang dại trên các ruộng đất trũng thấp ở ĐBSCL.
Trong số 5 loài Rau Mác thuộc họ Pontederiaceae (Lục bình), chuyên sống ở ruộng nước, ao hay mương lạch nước sâu thì cây rau Mác thon (Monochoria hastata) có dạng lá và hoa đẹp nhất.
-Thân: Rau mác thon là nê thực vật (cây có rễ, củ ngầm dưới nước, sình lầy), thân đứng ngắn.
-Rể: Rể chùm mọc từ thân ngầm, màu trắng, mọc sâu trong bùn.
-Lá: Lá có cuống cao giúp vươn lên khỏi mặt nước, dài 25-50 cm. Phiến lá hình tam giác dạng mũi tên, dài 4-26cm, rộng 4,5-10 cm, màu lục.
-Hoa: Phát hoa thành chùm ngắn, gần như nằm trên cuống lá. Cụm hoa là chùm ngắn, dày, hoa màu lam, rộng 1,5cm; lá đài 3; cánh hoa 3, rời, giống như lá đài; nhị 5, màu vàng, 1 nhị to màu tím; bầu 3 ô. Hoa màu xanh lam rất đẹp. Ra hoa quanh năm.
-Quả: Quả nang nhiều hạ
13. Cỏ đuôi ngựa:
Tên thường gọi:
Tên khoa học: Equisetum arvense
Công dụng: Cỏ đuôi ngựa (horsetail), một loại cây khá độc đáo, đã được các nhà thảo mộc học chú ý nghiên cứu cặn kẽ. Cỏ có hai hình thái : một loại mọc vào đầu muà xuân trông giống như cây măng tây (asparagus), còn loại kia thì mọc vào muà hè, thân cây mảnh mai trông giống như đuôi chim.
Loài người biết và sử dụng cỏ đuôi ngựa từ nhiều thế kỷ trước. Thật vậy, người ta dùng cỏ đuôi ngựa để cầm máu, bó gẫy xương, trị phong thấp, viêm khớp xương và giúp lợi tiểu.
Cỏ đuôi ngựa có hàm lượng silicic acid và silicates khá cao. Ngoài ra cỏ còn chứa kali, aluminum, manganese... và một số chất phụ thuộc. Những thứ này giúp cơ thể đào thải bớt lượng nước dư thưà (lợi tiểu). Silicates trong cỏ đuôi ngựa tăng cường sự liên kết các mô cơ để chống lại các chứng viêm khớp.
Một số chuyên gia về thảo mộc học tin rằng nồng độ hữu cơ được tìm thấy trong cỏ đuôi ngựa có thể giúp cho sự tái tạo sụn và xương (cho việc bồi dưỡng chứng móng tay giòn, tóc gẫy rụng, da khô v.v...)
Gần đây cỏ đuôi ngựa đã được nghiên cứu về tính hữu dụng của nó qua sự liên kết điều trị các chứng viêm khớp, chứng loãng xương, cũng như các chứng bệnh khác có liên quan tới xương và sụn, do có sẵn một hàm lượng đáng kể silica và calcium, là hai thành tố của xương.
14. Cây rau mát (Sagittaria)
Cây rau mát là cây thân rễ có chùm lá mọc tỏa ra, hay gặp ở nước ta. Thường sống trong ruộng nước và đầm lầy, cây nở hoa từ tháng 8 - 11 (mọc dại), thân rễ và củ ăn được và dùng làm thuốc.
15. Cây diên vĩ
Tên thường gọi: Cây diên vỹ
Tên khoa học: Iridaceae
Công dụng: Đã từ lâu, hoa Diên Vỹ được lựa chọn là quốc hoa của nước Pháp với ý nghĩa tôn giáo, 3 cánh hoa tượng trưng cho Chúa 3 ngôi – sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần. Cánh hoa còn giống như dáng một chú chim đang bay lên trời nên Iris luôn được coi là biểu tượng của thần linh.
Hoa Diên Vỹ ra hoa chủ yếu vào mùa hè, khả năng chống chịu với thời tiết tốt nên rất thích hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam. Cây Diên Vỹ phát triển tốt, có thể sống trong đầm lầy hoặc trên cạn đều được.
16. Cây súng (Nymphaea) :
Cây súng sống trong tự nhiên và xem như cỏ dại. Nếu trồng trong ao cá cảnh lớn, cây súng cũng khá đẹp, hoa màu trắng. Khi lai tạo có thể cho hoa màu khác nhau, cây có lá mũi tên mọc chìm trong nước và lá trôi nổi trước mặt nước, hoa nở từ tháng 7 -8 vào mùa hè các lá nổi lên có tác dụng che bóng và làm chỗ trú ẩn cho cá.
17. Rong lá thông (Najas microdon)
Rong lá thông thường thấy ở ven suối, bờ mương ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ Đức, Sóng Bé. Thân giòn dề gãy, phân nhánh nhiều, nhiều lá, lá hẹp có gai nhỏ. Thân leo dưới gốc dài 20 - 60 cm.
18. Rong lá ngò (Cabomba aquatica).
Rong lá ngò là loại rong đẹp và rất phổ biến trên toàn thế giới, ở nước ta thấy trồng loại cabomba tán lá thưa hơn một ít.
Do sự đồng nhất của môi trường thủy sinh trên toàn địa cầu nơi nào cùng có trong nước ngọt. Nhiều loại chịu tất cả các nhiệt độ cao thấp mà không chết, có loại nhiệt độ thấp và sẽ bị chết dần như rau cần và các loại rong trôi, nhiệt độ phù hợp là 24 – 27 độ c.
19. Rong xương cá (Myriophyllum)
Rong xương cá cùng tính chất với hai loại trên.
20. Rong đuôi chó (Ceratophyllum demersum):
Rong đuôi chó phân bố khắp nơi, nhiệt độ thích hợp từ 10 – 20 độ C. Loại cây thảo mọc chìm, lá màu lục sẫm xếp thành vùng. Các dải có răng dạng gai cứng. Hoa đơn tính ở nách lá. Cây mọc nổi tự do rất ít rễ. Ánh sáng bình thường nhân giống rất dễ bằng cách giâm cành. Nhiều khi người ta chỉ cắt ít đoạn thân đem thả vào bể cũng phát triển tốt. Đâu loại cây thủy sinh thường thấy trong các bể nuôi cá.
21. Cây đình lịch (Hygrophila)
Các loài Hygrophila difformis đều là cây từ Châu Á nhiệt đời mà nay rất phổ biến trên thế giới. Việt Nam cỏ đình lịch lông xám vùng Đồng Tháp. Các loài Hygrophila đều có chung đặc tính sinh trưởng nhanh và rất mạnh. Một chiếc lá cũng tạo thành cây (tựa như sống đời). Cây nước rậm rạp thường tạo thành bụi lấp đầy các bể cá mà phía sau thường có các cây cao hơn. Nếu tỉa ngọn dần sẽ tạo thành bụi thấp và rậm hơn. Có thể ứng dụng "kỷ thuật" này làm cho cây phù hợp với cá và bể nuôi. Cây trồng trong bể cá còn có 1 dạng khác là tảo. Phần lớn bể cá đều có ít nhiều tảo. Nhưng có loại xuất hiện lại là báo động nước bị ô nhiễm nặng như tảo lục. Có thể do thức ăn dư thừa, nên thay nước mỗi tuần 2 lần, mỗi lần bằng 1/3 nước trong hồ. Ánh sáng quá nhiều thì tảo sợi phát triển cũng không lợi. Khi gặp các loại này (còn có tảo lam, tảo nâu...) cần vớt ra và xem xét điều kiện vệ sinh của nước.
Thủy diệp lan có nhiều loại lá tùy theo kích thước và hình dạng. Thủy diệp lan xuất xứ từ Singapore, Malaysia trong những lòng suối thiên nhiên và phát triển để xuất khẩu. Ở nước ta có cây mái dầm (còn gọi là cây ráy chùy ẩn), thân rễ mọc đứng trong nước cao khoảng 10 cm có các vảy ở mắt, lá thành tán 5-7 cái, phiếm lá dải dài góc lá thuôn dần hay hình ném cuống lá hẹp, nhạt. Thường mọc dài ở ruộng nước, ở các nơi ruộng ẩm (Miền Bắc), những cây mọc sâu trong nước lá hẹp dài hơn, cuống lá cứng dài.